Tiền nhân xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông – tròn,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm.
Tin Mừng Ga 9, 1-41
Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa" (chữ Silôe có nghĩa là được sai)". Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng và kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Ðúng hắn". Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây".
Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt. Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Ðó là một Tiên tri". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người.
Mù và Sáng
(Chúa nhật 4 mùa Chay, năm A)
Tiền nhân xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông – tròn,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm.
Có hai con mắt, mờ một mắt, hư một mắt, hoặc thị lực yếu thì đã thấy khổ lắm rồi, huống chi bị mù hẳn. Hai con mắt “khác” một chút như bị đau cũng thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” là khổ suốt – dù có thêm “hai con mắt” nữa.
Mắt cũng biết khóc, biết cười. Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẻo, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nổi buồn và làm sạch mắt nhờ chất mặn. Đặc biệt là phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân!
Mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, như người ta ví von: “Đôi mắt là của sổ của tâm hồn”. Qua hai “cửa sổ” này, người ta có thể biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn quan trọng lắm đấy! Người yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh vía”. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu thôi!
Mù đồng nghĩa với tối tăm, trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” còn nguy hiểm hơn nhiều. Thế nên Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Lúc đó, chúng ta hóa thành người “có mắt như mù”. Khủng khiếp quá!
Ngày xưa, Đức Chúa đã phán với ông Sa-mu-en: “Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua” (1 Sm 16:1). Chúa không nói đến mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc”.
Trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!”. Nhưng Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Cách nghĩ của Thiên Chúa đã khác hẳn với loài người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác.
Chúng ta thường “trông mặt mà bắt hình dong”, cứ tưởng “con lợn béo” thì “lòng nó ngon”. Nhưng Thiên Chúa không như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam cũng xác nhận: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – gọi là dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém”.
Sau đó, ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê:
“Đức Chúa không chọn những người này”. Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Gie-sê nói còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên. Ông Sa-mu-en liền bảo ông Gie-sê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!”. Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Chúa nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi.
Phụng vụ Chúa Nhật Hồng (*) hôm nay sử dụng trọn Thánh Vịnh 23 (gồm 6 câu). Đây là Thánh Vịnh phổ biến nên rất quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng và gìn giữ, đồng thời cũng có ý đề cập niềm tín thác vào Ngài: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-4).
Thật vậy, khi có Chúa đồng hành thì “dầu qua lũng âm u” chúng ta cũng “chẳng sợ gì nguy khốn”, chúng ta có “côn trượng Ngài bảo vệ” thì hoàn toàn “vững dạ an tâm”. Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:5-6). Có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm vững dạ, vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không tăm tối.
Thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5:8-9). Tức là phải cẩn trọng xem “điều gì đẹp lòng Chúa”, chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng” (Ep 5:10-11). Thánh Phaolô giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi.
Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14).
Bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nó mạnh mà lại yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng sẽ lui ngay. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”.
Chuyện đời thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh càng phải nỗ lực hơn nhiều lắm!
Một hôm, Thầy Trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9:3-5). Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Thiên Chúa được vinh danh.
Đáng lẽ chúng ta phải “ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới phải, thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn không mấy quan tâm. Do đó, trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, gặp điều xui xẻo,…). Có người chỉ “để bụng”, nhưng có người lại dám “phán câu xanh rờn” rằng: “Chúa phạt!”. Lạy Chúa tôi! Nói theo phim bộ Hong Kong thì phải nói: “Thiện tai!”.
Không chỉ vậy, chúng ta còn có thiên kiến. Cũng một sự việc như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì chúng ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!”. Nhưng với người “hợp ý mình” thì chúng ta lại nói: “Thánh giá Chúa trao”. Đúng là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Chính định kiến đó là chúng ta “giết” người không cần gươm giáo!
Trả lời các đệ tử xong, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta:
“Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai phái”). Anh ta liền đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có biệt dược độc đáo ghê đi. Mà phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới đúng ngữ nghĩa. Đó là “nước miếng trộn với bùn”. Hay dữ nghen! Mấy lang băm chớ mà học đòi theo, các pháp sư phải sợ mà chạy có cờ, còn các lương y và bác sĩ danh tiếng cũng phải tâm phục khẩu phục!
Dân chúng trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới xì xầm bàn tán, kẻ thì bảo là chính hắn, kẻ thì bảo không phải, kẻ lại bảo ai đó giống hắn thôi. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu ai. Thế là họ dẫn anh ta đến với những người Pha-ri-sêu. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu trộn bùn với nước miếng và làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sa-bát. Ấy thế, người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9:15). Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì bảo Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát, kẻ thì bảo rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi vậy ha? Rồi họ lại hỏi “cựu người mù” nghĩ gì về người đã mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngày: “Người là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17).
Người Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. Họ hỏi anh ta có phải là con không. Cha mẹ anh xác nhận anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh sáng mắt thì họ không biết tại sao, cha mẹ canh bảo họ cứ hỏi anh ta là chính xác nhất. Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do-thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô.
Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi” (Ga 9:24). Anh ta bảo rằng ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà anh chỉ biết một điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt. Anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe. Anh nói thẳng rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Tự ái bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”.
Anh vừa gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:30-33). Họ đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34). Và rồi họ liền trục xuất anh. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi!
Đức Giêsu cũng biết họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Ngài hỏi anh có tin vào Con Người không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây” (Ga 9:37). Thật bất ngờ, nhưng anh thấy rất vui nên nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin” (Ga 9:38). Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thường thì đa số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”.
Biết anh thật lòng, Chúa Giêsu nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Những người Pha-ri-sêu đang ở đó và nghe vậy thì liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”. Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ mọn” như thế thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu lắc đầu, rồi thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!” (Ga 9:41). Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế luôn!
Còn chúng ta? Chắc hẳn đã có những lần chúng ta y như người Pha-ri-sêu vậy, chẳng hơn họ đâu. Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn”, không chịu “cân nhác” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên chúng ta “có mắt như mù”. Thật đáng sợ!
Mù thì chắc chắn khổ, nhưng chỉ mờ mắt hoặc thông manh cũng khổ, và cũng khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu đôi mắt không bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân” (Tv 91:8). Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” (Tv 119:18).
Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết rằng chúng ta đã đi được nửa Hành Trình Mùa Chay. Chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ, còn cận thị, viễn thị hoặc loạn thị nhiều hay ít? Chúng ta cận thị vì tưởng mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không nhận biết tội mình, và loạn thị vì “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại bạn một phần”. Đã qua nửa Mùa Chay, chúng ta cùng tạ ơn Chúa và tiếp tục xin Ngài dìu dắt chúng ta đi hết chặng đường Mùa Chay theo đúng Thánh Ý Ngài.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin mở mắt đức tin cho chúng con, xin tăng thị lực đức tin cho chúng con, xin giúp chúng con nhìn thấy chính Chúa trong mọi người – nhất là nơi những người nghèo khổ, nơi những người hèn mọn, và xin cho bất kỳ ai gặp chúng con cũng có thể nhận thấy nơi chúng con thực sự có Chúa sống động. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Chúa Nhật IV Mùa Chay mệnh danh là Chúa Nhật Hồng hoặc Chúa Nhật Vui (Laetare Sundae), do chữ đầu tiên của Ca Nhập Lễ là “Laetare” (Hãy vui lên, hỡi Giêrusalem). Chúa Nhật này dùng lễ phục hồng, được phép chưng hoa trên bàn thờ, và đệm đàn khi hát. Hoa Hồng Vàng được làm phép hôm nay, và còn được gọi là Mediana, Ngày Giữa Mùa Chay, Ngày Lễ Các Mẹ, Ngày Hoa Hồng, hoặc Chúa Nhật Tĩnh Dưỡng.
Có một Chúa Nhật Hồng khác, cũng gọi là Chúa Nhật Vui (Gaudete Sundae), đó là Chúa Nhật III Mùa Vọng, do câu mở đầu của Ca Nhập Lễ có câu “Gaudete in Domino semper” (Anh em hãy vui trong Chúa luôn mãi). Chúa Nhật này cũng dùng lễ phục hồng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét